SAO CỰ MÔN

Ngày đăng: 27 - 11 - 2023 Lượt xem: 9 lượt

SAO CỰ MÔN

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Cự môn thuộc âm thủy. Tại Đẩu là ngôi sao thứ hai thuộc chòm Bắc Đẩu, tại Số là ngôi sao thứ tư theo phép định cục an sao Thiên bàn thuộc chòm Nam Đẩu. Hóa khí là ám, chủ về thị phi, đa nghi, hiềm khích.

Cự môn là ngôi sao về nói năng, nên chủ về có tài ăn nói, phù hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, năng nói, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, nên có khả năng trở thành nhà ngoại giao. Nhưng, cũng vì nói nhiều, dễ rước lấy điều tiếng thị phi, lại khó tránh được đố kị, hiềm khích, cạnh tranh, nên không hợp với mệnh nữ. Trừ khi theo những nghề như giáo viên, biểu diễn, ngoại giao, quảng cáo marketing, nếu không rất dễ trở thành ngôi lê đôi mách, buôn chuyện thị phi.

Sao Cự môn hóa ám, chủ về lo lắng buồn phiền, cũng chủ về vất vả. Nằm tại bất lỳ cung vị nào, bất kể có Cát tinh ở tam phương hiệp trợ hay không, đều chủ về tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ rất nhiều mới có được thành tựu.

Sao Cự môn ưa gặp Hóa Lộc, tăng cường lý tính và mức độ hoạt ngôn, lại có thêm uy quyền. Nếu sao Cự môn miếu, vượng gặp Hóa Quyền, lại gặp lục Cát tinh, phần nhiều đều trở thành các nhà ngoại giao có tài hùng biện, đảm đương những chức vụ quan trọng. Nếu sao Cự môn không ở cung miếu, vượng mà gặp được Hóa Quyền, sẽ trở thành bậc thầy nổi tiếng, nhiều học trò đệ tử.

Sao Cự môn cũng nên Hóa Lộc tại cung miếu, vượng, chủ về có khẩu phúc (được ăn ngon), đồng thời tăng cường phần cảm tính và tài hùng biện. Nếu như lại gặp thêm Cát tinh, chắc chắn sẽ thành tựu về sự nghiệp. Nếu như Hóa lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Thiên diêu, Hàm trì, Hóa Khoa, nên phát triển trong lĩnh vực biểu diễn, diễn xuất, khả năng trở thành nghệ sỹ có danh tiếng. Sao Hóa lộc, Hóa quyền của Cự môn có tửu lượng tốt, được hưởng khẩu phúc.

Sao Cự môn không có khả năng kháng cự với lục Sát tinh và sao Hóa Kị, nhất là khi gặp Kình dương và Đà la, sẽ khiến cho đường tình duyên gặp nhiều sóng gió trắc trở. Nếu gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp chủ về vất vả trắc trở. Khi sao Cự môn Hóa Kị thì ăn nói khó nghe nhưng lại nói quá nhiều gây phản cảm cho người khác, tự chuốc lấy điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, dễ gây nên vạ miệng mà bị kiện tụng.

Sao Cự môn nếu gặp Thái dương thì cát hung lẫn lộn. Gặp sao Thất sát chủ về bị sát thương. Gặp Tham lang, Phá quân dễ bị tù tội lưu đầy. Gặp Tử vi sẽ khắc chế được tính cách ngoan cố của Cự môn. Gặp Lộc tồn sẽ giải trừ được tai ách. Gặp Kình Đà trai làm giặc cướp gái dâm tà. Nếu tại cung đối xung có Hỏa tinh, Linh tinh, Bạch hổ, mà không có sao Tử vi trấn áp hay Lộc tồn hóa giải, dễ bị đầy ải hoặc xung quân đến phương xa. Tam phương hội Sát trùng điệp ức hiếp, là thần hà khắc, dễ trở thành số cô độc, dễ gặp hỏa hoạn. Nếu theo nghiệp cửu lưu sẽ tránh được vất vả. Hai hạn gặp hung tinh tai họa không nhẹ.

Sao Cự môn và sao Thái dương trấn mệnh tại Dần hoặc Thân, là cách “Cự Nhật đồng cung“, có tài ăn nói hùng biện, vất vả trước thành công sau. Sao Cự môn trấn mệnh tại Tý hoặc Ngọ, cung vị tam phương tứ chính có thêm hóa Lộc, hóa Quyền hoặc hóa Khoa hiệp trợ, là cách “Thạch trung ẩn ngọc” (Ngọc ẩn trong đá), bất khuất kiên cường, khi trẻ vất vả trung niên sẽ có thành tựu. Sao Cự môn nhập Thân cung lạc hãm tại Thìn hoặc Tuất, lại gặp bốn Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh tại cung mệnh, là cách “Cự phùng tứ sát“, nếu không có Cát tinh ứng cứu, dễ vì trốn tội mà lưu lạc tha hương. Sao Cự môn và Thiên cơ cùng trấn mệnh tại Dậu, tại Dậu hoặc cung vị tam phương tứ chính gặp Hóa Kị, là cách “Cự Cơ hóa dậu“, làm việc gì cũng không thành tựu, mệnh nữ ắt phá bại, phiêu đãng vô định.

SAO CỰ MÔN TỌA THỦ CUNG MỆNH

Dung mạo và tính cách

Người có sao Cự môn tọa thủ cung Mệnh, thường ánh mắt nhìn đoan chính, vẻ mặt nghiêm túc, giọng nói cao mà thanh, hành động nhanh nhẹn. Nhập miếu thì cơ thể cao đậm, nhìn vẻ bề ngoài toát ra hình thức là người phúc hậu lương thiện, lạc hãm thì thân thể cao gầy.

Ngay thẳng bộc trực, tính đa nghi, có khuôn mặt thánh thiện khả ái, cũng có vẻ mặt hiền lành ít nói. Lục thân thiếu hòa hợp, là người chủ quan lại tự tin, thường hay tỏ thái độ bất mãn với hiện tạinên thích gây chuyện thị phi, lúc thiện lúc ác thường không biểu hiện lộ ra ngoài mặt. Học nhiều nhưng ít tinh thông, phong cách làm việc thường tỏ ra khó khăn vất vả nên khó có được sự thanh nhàn thảnh thơi.

Tính tình đa nghi, kết bạn với mọi người ban đầu thì tốt nhưng cuối cùng lại ác. Tư duy lãnh đạm, trong lòng nhỏ nhen hiếm khi rộng lượng, làm việc lớn thường quá chú trọng tới hình thức mà bỏ qua khả năng phân tích, khả năng quan sát, khả năng phán đoán tình huống, khả năng ghi nhớ, và khả năng liên tưởng. Tuy nhiên, là người giầu khả năng nghiên cứu, nên thường có tầm hiểu biết rộng, có sáng kiến, dù không giao tiếp nhưng khả năng biểu đạt lại rất tốt, biện luận sắc sảo. Có xu hướng sống cuộc đời thanh bạch, ít thiên về thú vui của cuộc sống, lấy công việc là mục đích hành đầu.

Phụ nữ cung mệnh có sao Cự môn thường có lòng tự tôn rất cao, bụng thẳng dạ ngay, sức sống mạnh mẽ, đa nghi, thường hay tự so bì với người khác mà tự chuốc lấy phiền muộn trong lòng. Khi can thiệp vào chuyên gia đình hay công việc của chồng, thường thiếu thận trọng trong ngôn ngữ, lời nói phản cảm thường gây tổn thương bầu không khí hạnh phúc, ấm cúng. Làm việc chăm chỉ cần mẫn, xử lý mọi việc trong gia đình chu đáo, công việc và gia đình đều đảm nhiệm tốt.

Suy đoán vận mệnh

Cự môn + 3 Cự môn + 3 Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Cự môn + 4

Thái dương + 2

Cự môn – 2 Cự môn + 4

Thiên cơ + 3

Cự môn + 4

Thiên cơ + 3

Cự môn – 2
Cự môn + 4

Thái dương + 3

Cự môn – 1

Thiên đồng – 1

Cự môn + 3 Cự môn + 3

Độ sáng của sao Cự môn tọa thủ 12 cung

Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Cự môn.

Mối quan hệ của chúng như sau:

– Miếu = + 4

– Vượng = + 3

– Địa = + 2

– Lợi = + 1

– Bình hòa = 0

– Không đắc địa = – 1

– Hãm địa = – 2

Cự môn là miệng, cho nên sao Cự môn tượng trưng cho “miệng”, nói chung không thể tách rời khỏi “miệng”, có “khẩu phúc”, giỏi quan hệ công chúng, phần nhiều là những người gây dựng sự nghiệp bằng “miệng”, như giáo sư, quan tòa, luật sư, nhà ngoại giao, người dẫn chương trình, người làm việc kinh doanh đối ngoại, nhân viên kinh doanh, ca sỹ, diễn viên, nghề dịch vụ công hay tư,… đồng thời còn thiên về việc xử lý các mối quan hệ chung.

Sao Cự môn phần nhiều là nói về “miệng”, cho nên ngay thẳng bộc trực là ở “miệng”, nhưng “ngôn đa tất thất” là nói về người phụ nữ thị phi, cho nên sao Cự môn không nên xuất hiện trong mệnh của nữ giới.

“Thị phi” của sao Cự môn không phải là có ý gây chuyện “thị phi”, người mệnh sao Cự môn có khả năng phân tích rất tốt, rõ ràng là rất “thị phi”, cố gắng không nên gây những chuyện “thị phi”, nhưng cũng khó có thể thoát khỏi những chuyện “thị phi”.

Ba sao Cự môn, Tham lang và Thiên cơ, đều thuộc kiểu giao tiếp hướng ngoại, nhưng tính chất của chúng lại có sự khác biệt. Sao Tham lang đa tài đa nghệ, tính chất giao tiếp của nó thiên về trường phái lãng mạn: tửu, sắc, tài, khí; Sự giao tiếp của sao Thiên cơ thiên về liên lạc giao thiệp, vì người mà bôn tẩu vất vả; Sao Cự môn thì dùng “miệng” là chính, thiên về diễn giảng biện thuyết đúng sai, phải trái.

Sao Cự môn và sao Văn khúc đều thiên về tài biện luận ăn nói, nhưng tài biện luận ăn nói của sao Văn khúc phần nhiều thuộc về kỹ xảo biện luận, chú trọng tu từ mà lời nói hướng thiện, cũng mang hàm nghĩa “tài” và “đào hoa”. Tài biện luận ăn nói của sao Cự môn thì lại chú trọng đến thực tế, gồm có phân tích và liên tưởng, cũng có nội dung nhưng “tài khí” thì lại tương đối ít.

Khí hóa của sao Cự môn là ám, trong bóng tối có thể thấy được ánh sáng bên ngoài, cố nhiên sao Cự môn với khả năng quan sát sự vật một cách thấu đáo hơn người, phần nhiều có những biểu hiện như sau:

1. Bất luận ở hoàn cảnh khó khăn nào, phần lớn đều có thể tháo gỡ được trở ngại khó khăn bước đầu, biết hy vọng vào tương lai.

2. Khoan dung độ lượng, biết khoan dung hơn nữa còn hiểu đạo lý.

3. Có khả năng hội nhập được cuộc sống đa dạng muôn mầu, và có biểu hiện cụ thể bằng ngôn ngữ, hành động, dễ được mọi người chấp nhận và hoan nghênh.

4. Có thể hiểu được sự việc và truyền đạt thông tin, hóa giải khúc mắc.

5. Nằm giữa ranh giới thị phi và chính trực, nhưng không bị mất đi bản tính lương thiện, mà còn giữ được đạo trung dung.

6. Có chuyện thầm kín trong lòng không thể bày tỏ với người khác, hoặc là dấu đầu hở đuôi.

7. Thường rơi vào ảo tưởng mà tự chuốc lấy phiền muội, thậm chí còn tự hủy hoại mình.

8. Nhàn rỗi, càng nói càng sai, thường khổ tại miệng, bị người khác hiểu lầm oán trách.

9. Trước khi được xã hội công nhận, phải trải qua nhiều vất vả, chỉ cần giữ vững ý chí, cuối cùng cũng thành công.

10. Mạnh bạo hơn người, thường làm những chuyện mà mọi người không ngờ tới, hoặc những việc mà không được mọi người tán thành, khiến mọi người bàn tán.

11. Cơ hội sự dụng ngôn ngữ hơn người, cũng thường vận dụng tài ăn nói của mình mà đạt được lợi ích.

12. Cuộc đời có nhiều cơ hội phải đấu tranh.

Người có sao Cự môn thủ mệnh, nên theo những nghề dùng miệng là chính, có thể nên học và tinh thông nhiều thứ tiếng ngoại ngữ, để có cơ hội làm việc theo phương thức chính phái, qua đó, bản tính thị phi dễ bị “phê bình” thường sẽ chuyển biến sang xu hướng “giám sát đúng sai”, “đánh giá sự hoàn thiện”, phát huy khả năng phân tích có tính thực tiễn của sao Cự môn. Ngoài ra, người có sao Cự môn thủ mệnh, cuối đời phần lớn đều nhận được sự chăm sóc của con cháu.

Sao Cự môn cũng là sao đơn độc, duy có sao Lộc tồn mới có thể hóa giải được. Sao Cự môn thâm nhập vào các cung Lục thân, chủ về phần lớn người đó bạc duyên với lục thân, nếu không kết hợp với sao Lộc tồn, hoặc đồng cung với sao Hóa Lộc, thì tâm thần thường thường dễ bất an, hoặc có hiện tượng cô đơn.

Sao Cự môn được tam cát hóa Lộc Quyền Khoa, chủ về bổng lộc dồi dào, tài diễn thuyết hùng biện được trọng dụng phát huy. Song tính chất lại có sự khác biệt: Hóa Lộc mà lại mang cảm tính, hiền lành không cưỡng bức, quan sát tình cảnh nói chuyện. Hóa Quyền giảng lý mà mang tính quyền uy, trật tự rõ ràng, tăng thêm trọng lượng lời nói, hơn nữa còn tăng thêm lòng tin và độ tin cậy vào người khác mà giảm bớt chuyện thị phi. Hóa Khoa là lời nói nho nhã, mang phong thái của người quân tử.

Sao Cự môn thích nhất là Hóa Quyền, khi miếu vương Hóa Quyền, lại kết hợp thêm lục Cát tinh, thì phần nhiều là người làm quan lớn gánh vác trách nhiệm ngoại giao. Nếu không thuộc miếu vượng mà gặp sao Hóa Quyền, thì cũng là người gánh vác trọng trách. Khi sao Cự môn nhập miếu vượng Hóa Lộc, có thêm cát tinh hội chiếu, chủ về sự nghiệp sẽ được thể hiện thấy rõ, nếu Hóa Lộc lại gặp Hồng loan, Thiên hỷ, Văn xương, Văn khúc, Hàm trì, thì nên phát triển theo hướng văn hóa nghệ thuật, biểu diễn giải trí, phần nhiều sẽ thành danh trên con đường này.

Sao Cự môn không thích gặp Hóa Kị, ngôn từ sắc bén, nói chuyện khó nghe, lại thích nói chuyện, dễ khiến cho người phản cảm, đắc tội với người mà không biết. Nếu sao Hóa Kị lại gặp phải Sát tinh, thì nên chú ý chuyện thị phi nơi quan trường.

Sao Cự môn kỵ nhất gặp sao Kình dương và sao Đà la, chủ về chuyện tình cảm gặp nhiều sóng gió, một lời không thể nói hết được, phần lớn là những chuyện thị phi mang tới. Sao Cự môn gặp phải Hỏa tinh, Linh tinh thường tăng thêm phần khó khăn. Cự môn đồng độ cùng Địa không, Địa kiếp tọa thủ cung mệnh, chủ về một đời vất vả, thậm chí thời thơ ấu còn bị bỏ rơi.

Sao Cự môn – Lục Bân Triệu

Sao Cự môn trong thuyết Ngũ hành vừa thuộc âm thổ, vừa thuộc âm kim, đây là Thổ yên tĩnh chôn Kim, cho nên hóa khí là “ám tinh” (sao u ám). Ở trên trời thuộc chòm sao Bắc Đẩu, ở trong mệnh bàn chủ về lời qua tiếng lại, tranh chấp ra mặt hay ngấm ngầm đấu nhau.

Nếu sao Cự môn hóa Quyền thì làm thầy người ta, thanh danh vang xa. Có Thái dương hội chiếu thì quang minh lỗi lạc, vừa phú vừa quý. Cự môn ở Tý hoặc Ngọ, gọi là cách “Thạch trung ẩn ngọc“, lấy Cự môn hóa Quyền hoặc hóa Lộc làm thượng cách, lấy Lộc tồn đồng cung làm thứ cách, lấy không có Lộc làm cho tốt lên làm kế đó, chủ về phú quý song toàn, một đời chức vị cao lộc hậu. Nhưng không thể lên tới đỉnh tối cao, nếu lên tới đỉnh sẽ có hậu quả không tốt, hoặc bị mọi người chỉ trích, dẫn đến thân bại danh liệt.

Cự môn ở Dần hoặc Thân, đều chủ về danh lợi song thu, có thể thành đại phú, thanh danh lừng lẫy ở tha hương. Có điều lấy Dần làm Thượng cách, kế đến là tới Thân. Ở Dần lấy thân thể phát mập là hợp cách.

Cự môn ở Tị không lợi cho Phụ tinh (cha), hoặc tuổi còn nhỏ đã làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ tổn hại cha, hay còn nhỏ nhiều bệnh tật, chủ về vất vả tất bật, nên theo học một nghề chuyên môn. Nếu được Lộc tồn đồng độ, thì phúc dày lộc trọng, song tính tình mộc mạc giản dị mà cẩn thận, chủ về giầu có. Nếu có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì khí phách cực lớn, giỏi sáng lập sự nghiệp, chủ về sang quý.

Cự môn ở Hợi, có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về đã phú lại quý, lừng danh ở tha hương, song tài năng quá lộ, chí cao mà khí ngạo, nên dễ bị người chỉ trích.

Cự môn ở Thìn, nếu hóa Quyền hoặc hóa Lộc chủ về phú cách, gặp thêm Lộc tồn chủ về đại phú. Nếu Cự môn và Văn xương cùng đến tọa tại Thìn, mà Cự môn Hóa Lộc, còn Văn Xương Hóa Kị, là cách rất đặc biệt, chủ về đại phú đại quý. Bởi vì sao Thiên đồng ở Tuất có thể hóa cái xấu của sao Kị thành hữu dụng.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Mão, có Hóa Lộc hay Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, và có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, là chủ về cực quý.

Cự môn và Thiên cơ ở tại Dậu, tuy có cát tinh Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhưng vẫn chủ về quý mà không hiển, phú mà không bền.

Các cung vị trên đều lấy tiêu chuẩn tam phương tứ chính không gặp Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh là nhập cách.

Sao Cự môn đồng độ với sao Thiên đồng ở Sửu hoặc ở Mùi, chủ về hình khắc, khổ cực, nhiều thị phi, có gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền tuy tốt nhưng không được lâu dài. Cự môn ở Tuất Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc là cách đặc biệt (kỳ cách), bởi vì Thái dương ở cung Ngọ là mặt trời giữa trời hội chiếu Cự môn, thì khí u ám tan hết.

1. Cự môn ở cung Mệnh viên

Sao Cự môn đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh vàng, có Thái dương đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về sắc mặt hồng trắng hoặc hồng vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật dài hoặc tròn dài. Nhập miếu hoặc có Thái dương ở Tị Ngọ thì chủ về béo mập, thân hình trung bình cao, nếu không sẽ chủ về thân hình trung bình, hoặc gầy nhỏ. Tính tình trung hậu, mặt mày thanh tú, có nghề chuyên môn, khéo ăn nói, hay hùng biện. Có lòng chính nghĩa, không có việc gì nhưng lại thường thể hiện bận rộn tất bật, học nhiều mà ít tinh, có theo học về pháp luật, cơ giới, y học, và tinh tướng tạp nghệ, hoặc làm thầy mọi người, lãnh đạo bang hội. Ưa nhất là Hóa Quyền, Hóa Lộc, và Lộc tồn, chủ về vừa quý vừa phú. Nếu Hóa Kị thì lời qua tiếng lại liên miên, tai họa tơi bời. Phàm làm việc gì cũng nhiều nghi ngờ mà ít quyết đoán, tiến thoái bất định. Có Đà la đồng cung thì trong mình có nốt ruồi lạ. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Kiếp sát, Thiên hình, Âm sát, mà không có Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền hóa giải, thì xảy ra tình hình xem nhẹ mạng sống, như tự tử, đâm đầu xuống sông, uống thuốc độc, hoặc gặp hỏa tai, bị điều ra tiền tuyến, bôn ba ngàn dặm, làm việc điên đảo, hoàn toàn không có chủ trương.

Nữ mệnh có sao Cự môn lâm mệnh cung, nhập miếu hoặc có Lộc tồn, Hóa Lộc, hoặc Hóa Quyền, thì chủ về vừa phú vừa quý, hơn nữa, thọ mệnh rất dài. Nếu lạc hãm, hoặc Hóa Kị thì mang tiếng người ghét, nhiều thị phi. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu thì chủ về hình khắc, thọ yểu, lấy kế thất, vợ lẻ là thích hợp, song vẫn nhiều tranh giành đấu đá.

Lưu niên đại hạn có sao Cự môn, đồng độ với Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì chủ về phát triển sự nghiệp, có thể sáng lập đại nghiệp, thành đại sự, mọi việc thấy hung mà thực ra là cát, danh lợi song thu. Nếu Hóa Kị, hoặc hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, thì chủ về tai họa kiện tụng lao ngục, hình khắc, hoặc gặp hỏa tai, binh lửa, trộm cướp, nhiều tai họa vô vọng.

2. Cự môn ở cung Huynh đệ

Sao Cự môn đến cung Huynh đệ, chủ về hình khắc bất hòa, lời qua tiếng lại cãi vã, hoặc có anh em khác mẹ. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên phúc hội chiếu, và có các sao Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn cùng đến, thì chủ về anh em sáng lập sự nghiệp thành tựu, ba người trở lên. Song phải có Thái dương đồng độ mới nhập cách. Đồng độ với Thiên cơ thì anh chị em đều có cơ tâm, phân ly đông tây. Đồng độ với Thiên đồng là có anh em kết nghĩa, song trước tốt sau xấu. Hội Không Kiếp Hình Hao, thì bị anh em cắt xén bớt. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Âm sát, Cô thần, Quả tú hội chiếu thì hình khắc, tranh chấp thị phi. Sao Hóa Kị cũng chủ về lời qua tiếng lại thị phi, tai nạn bệnh tật, phá hao.

3. Cự môn ở cung Thê (Phu)

Sao Cự môn đến cung Thê, thường có tình trạng lời qua tiếng lại, cãi vã, gây sự, nên lấy người lớn tuổi hơn mình. Nếu có Thái dương đồng độ, thì tính tình hào sảng, làm việc sáng suốt, dũng cảm gánh vác trách nhiệm. Có các cát diệu Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật hội chiếu thì giúp chồng dạy con, thông minh lanh lẹ. Đồng độ với Thiên cơ, gặp sao làm cho tốt lên, thì thông minh nhanh nhạy, xinh đẹp giỏi chăm lo gia đình. Đồng độ với sao Thiên đồng, tuy thông minh nhưng có hình khắc sinh ly. Nếu có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Cô thần, Quả tú hội chiếu, thì chủ về khắc hại vợ, sinh ly, ở riêng, lời qua tiếng lại.

Nữ mệnh có sao Cự môn đến cung Phu, có các cát tinh Thái dương, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì chủ về lấy được người chồng đã phú mà còn quý, đa tài đa năng, sự nghiệp lớn lao, còn được người kính mến. Nếu có sao Hóa Kị thì lời qua tiếng lại thị phi, lúc nào cũng cho bản thân là đúng, nhiều tranh cãi vô ý nghĩa. Nếu hội chiếu Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, thì chủ về hình khắc phân ly, mệnh ba lần lấy chồng. Nên làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức kết hôn. Đây là tinh diệu nóng nảy, nhiều tranh chấp.

4. Cự môn ở cung Tử nữ

Sao Cự môn đến cung Tử nữ thì nên chậm có con. Nếu có Thái dương đồng độ, hội chiếu Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì chủ về có ba con trở lên, có thể phát, đã phú mà còn quý, thông minh đa tài, sự nghiệp hơn cha ông. Có Thiên cơ đồng độ thì nên làm con thừa tự của người khác hoặc ở riêng, nếu không sẽ hình khắc. Có Thiên đồng đồng độ, gặp sát diệu, nuôi con thừa tự. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì chủ về cô độc. Có Hóa Kị, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, thì chủ về con cái nhiều bệnh tật, phá hao tiền bạc về sau còn hình khắc. Đây là tinh diệu cô độc, cho nên cần phải có Thái dương đến chiếu sáng mới trừ khí u ám. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, thì mới sinh được ánh sáng tốt lành.

5. Cự môn ở cung Tài bạch

Sao Cự môn đến cung Tài bạch, chủ về nhờ có lao tâm lao lực và dựa vào trí lực, khẩu tài mà được, có thể tay trắng lập nên sự nghiệp. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn đồng độ thì chủ về giầu có, song tối kị chí khí cao ngạo, tài năng bức người, nếu không, tất sẽ bị người chèn ép, gặp phải khó khăn cực lớn, vì bị mọi người xúm lại đánh đổ, hoặc bị con cái làm hao tổn, suy bại. Có Thái dương đồng độ, chủ về được người tin cậy, mở rộng cơ nghiệp đã thành, và có thể được người ở tha hương tôn sùng. Có Thiên cơ đồng độ, vào nhiều ra nhiều, nhiều biến động. Có sao Thiên đồng đồng độ, có thể dựa vào kỹ thuật, nghệ thuật hoặc tay trắng mà sáng lập sự nghiệp; hoặc làm các nghề như luật sư, thẩm phán, bác sỹ, thầy thuốc mà làm nên. Có Kình dương Đà la cùng đến, chủ về nhiều rắc rối tranh chấp, kiện tụng. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao đồng độ hoặc hội chiếu, sẽ có tổn hao vì họa binh đao, cướp bóc, hỏa tai,…

6. Cự môn ở cung Tật bệnh

Sao Cự môn đến cung Tật bệnh, chủ về các chứng âm tổn, thương tổn ngầm, bệnh phổi, mụn nhọt ngầm, ung thư bao tử. Có Thiên cơ đồng độ thì “Can Vị bất hòa“, hoặc trường vị nhiều khí, tâm phiền uất kết. Có Thái dương đồng độ thì huyết áp cao, đau mắt, đầu choáng, nhức đầu, hư hỏa bốc lên. Có Đà la đồng độ thì bán thân bất toại. Có Thiên đồng đồng độ thì đau thần kinh tọa, đau lưng eo, cơ nhục ngày càng teo tóp, hoặc mụn nhọt. Có Lộc tồn, Hóa Lộc thì bệnh bao tử. Có Hóa Kị thì thường lở miệng.

7. Cự môn ở cung Thiên di

Sao Cự môn có Hóa quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, nhập miếu đến cung Thiên di, chủ về xuất ngoại đại phát, nhờ khẩu tài diễn thuyết hùng biện mà nổi tiếng tha phương. Trong chính giới là nhân tài của ngành tư pháp, yếu nhân trong công tác ngoại giao, trong thương giới là người phụ trách doanh nghiệp công ty. Sao Cự môn Hóa Kị thì xuất ngoại nhiều tranh chấp cãi vã, tiến thoái không quyết đoán, đa nghi bất định, đông bôn tây tẩu, vất vả lạ thường. Có Thái dương đồng độ thì xuất ngoại vẻ vang, có thu hoạch bất ngờ. Nhưng, Thái dương ở Tị Ngọ dễ bị tiểu nhân đố kị. Đồng độ với Thiên đồng, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, Lộc tồn, chủ về xuất ngoại tay trắng lập nghiệp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, thì xuất ngoại gặp tai nạn, thiếu duyên với người, nhiều thị phi. Lưu niên hóa sát thì có tai họa về lao tù, hình khắc tử thương.

8. Cự môn ở cung Giao hữu

Sao Cự môn Hóa Quyền đến cung Giao hữu, gặp cát diệu nhập miếu Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, chủ về bạn hữu tuy nhiều cãi vã tranh chấp, song có nhiều bạn đa mưu, lập nên sự nghiệp, hoặc có thuộc hạ tính tình thẳng thắn, siêng năng, giỏi làm, đa tài. Có Thái dương đồng độ chủ về “úy hữu“, hoặc được bạn tốt, trượng nghĩa, nói điều phải. Đồng độ với sao Thiên đồng thì nhiều bạn bè khẩu thị tâm phi, ngôn hành bất nhất. Gặp sao Hóa Kị thì ít được bạn bè giúp đỡ, nhiều lời qua tiếng lại, nhiều tranh chấp. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, thì chủ về bạn bè làm liên lụy, hoặc thủ hạ là người bất nghĩa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Âm sát đồng độ hoặc hội chiếu thì chủ về vì bạn bè mà phá hao, hoặc bị thủ hạ trộm cắp.

9. Cự môn ở cung Sự nghiệp

Sao Cự môn nhập miếu đến cung Sự nghiệp, chủ về sáng lập sự nghiệp, hoặc phát triển từ nghề nghiệp chuyên môn, như làm thầy thuốc, luật gia, nhà quân sự, cho đến phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực tướng học, hoặc lãnh đạo bang hội, lãnh đạo tôn giáo, dùng đầu óc hơn người và khẩu tài hùng biện mà thành công. Nhập miếu, có các cát tinh, lại gặp Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng độ, chủ về làm yếu nhân trong giới quân sự, người nổi tiếng trong xã hội, nhân vật lớn trong giới thương nghiệp. Có Thái dương đồng độ, thì danh tiếng lớn hơn tiền tài. Có Thiên cơ đồng độ thì biến động đa đoan không thể làm một việc một nghề suốt đời được, khi văn khi võ, khi đông khi tây, ảo tưởng nhiều, dục vọng nặng. Đồng độ với sao Thiên đồng, thì có đầu mà không có đuôi, việc nhiều mà không thể kết thúc. Có sao Hóa Kị thì sự việc không yên định, nhiều tranh chấp, cãi vã thị phi, trong sự thành công có nhiều thất bại. Gặp các sát tinh Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hình, thì trong công việc bị nhiều kiện tụng, dính dáng đến pháp luật, đấu đá tranh chấp, nghề nghiệp không ổn định, tai họa tơi bời. Có khi được tiền tài bất ngờ, song bạo phát bạo tàn, được đó mất đó, hoặc bôn ba giang hồ, bị thất bại bất ngờ, hay bị đả kích một cách đặc biệt.

10. Cự môn ở cung Điền trạch

Cự môn nhập miếu, đến cung Điền trạch, có cát diệu, lại Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng cung, chủ về tự tạo sản nghiệp. Có Thái dương đồng độ, tuy có điền sản, song vì điền sản tranh chấp ra mặt, hay ngấm ngầm đấu tranh, có nhiều điều tiếng. Có sao Thiên cơ đồng độ, lúc lên lúc xuống, dễ thành dễ bại. Đồng độ cùng sao Thiên đồng, phần nhiều vì ruộng đất thấp và sông lạch mà gây ra tranh chấp, rắc rối. Cự môn Hóa Kị thì gia trạch không yên, vì lời qua tiếng lại thị phi mà rời xa nhau, hoặc trong gia trạch lắm chuyện thị phi. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, thì chủ về vì nhà cửa đất đai mà sinh ra tranh chấp rắc rối hay liên quan đến pháp luật, hoặc người trong nhà thường hay bị hình khắc tổn thương, tai họa. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên nguyệt, Âm sát hội chiếu, thì chủ về gia trạch gặp họa binh đao, hỏa tai, cướp trộm, hoặc chủ về bản thân phải phiêu bạt tứ hải.

11. Cự môn ở cung Phúc đức

Sao Cự môn đến cung Phúc đức, chủ về người lao tâm lao lực, hao tổn tinh thần. Hóa Kị thì tâm thần bất định, mất ngủ, làm việc không có định hướng, không thể làm suốt một mạch, nửa chừng thường muốn thay đổi, hoặc nửa chừng mất đi nhiệt tình. Có Thiên cơ đồng độ thì càng nặng lòng muốn thay đổi, làm việc hay thay đổi nửa chừng, hoặc muốn làm lại từ đầu, hoặc hối tiếc, nên tinh thần không được sảng khoái, chủ người mẫn cảm. Có Thái dương đồng độ, tuy tâm chí luôn bận rộn, song có thể hưởng thụ. Chỉ khi nào đồng độ với phúc tinh Thiên đồng mà không có sát diệu, thì mới được vui vẻ, yên ổn. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì chủ về tự tìm phiền não, ngực tức khí kết, nhiều lo nghĩ ưu phiền, nói nhiều hay gây rắc rối, không được hưởng phúc.

12. Cự môn ở cung Phụ mẫu

Sao Cự môn đến cung Phụ mẫu, tất nên làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ khắc hại hình thương. Có Thiên cơ đồng độ, tất nên làm con thừa tự của người khác, hoặc bái thêm người khác làm cha mẹ, nếu không sẽ hình khắc phân ly. Có Thái dương đồng độ thì giữa cha con có sự tranh chấp, nhiều cãi vã. Đồng độ cùng Thiên đồng, không lợi cho cha mẹ, gia sản của tổ tiên dần dần lụn bại, hoặc bị kẻ khác chiếm đoạt. Có Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn đồng cung, thì không hình khắc, hoặc chủ về cha mẹ giầu có, được thừa hưởng di sản. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình thương khắc hại, cha mẹ không thể đầy đủ.

Luận giải cự môn theo Nam Phái

1. Cự Môn nhập Mệnh

Những người có Cự Môn nhập Mệnh, có hai loại khuôn mặt là: mặt chữ nhật hoặc mặt tròn dài. Hầu hết mọi người đều có mắt một mí và mắt nhỏ.
Người này khi cò trẻ nước da trắng xanh, khi về già thì xanh đen. Nếu nhập miếu thì cao gầy, nếu lạc hãm thì người thấp nhỏ, ngũ đoản.
Những người có Cự Môn nhập Mệnh đều có thị lực nhạy bén, giỏi quan sát lời nói và biểu cảm của người khác, phản ứng não bộ nhanh nhạy. Tính cách trung thành, khuôn mặt tuấn tú, có kỹ năng chuyên môn, tài hùng biện tốt, có thể lập luận sắc bén. Có ý thức về công lý, phải bôn ba, học nhiều tinh thông ít, thích học luật, cơ khí, y học và nghệ thuật, hoặc làm giáo viên của công chúng, và một thủ lĩnh băng đảng. Một chút tức giận, không hài lòng với thực tại.
Cự Môn nhập Mệnh, tuổi thơ lận đận, lục thân khó hòa hợp, cuộc đời đầy rẫy thị phi không tránh được, hay đa nghi, làm việc gì cũng tiến lui, hay nói dối. Nếu không có cát tinh hội chiếu, người này sẽ bôn ba, vất vả bận rộn.
Cự Môn nhập Mệnh phù hợp với các nghề nghiệp như luật sư, nhà ngoại giao, giáo viên, thẩm phán, thầy bói và nhà lý luận.
Cự Môn tọa Mệnh thì xung quanh nhà là những con mương, những bức tường đổ vỡ, những chiếc cầu sắt, v.v.
Khi Cự Môn nhập Mệnh người này đều có miệng lưỡi thị phi, minh tranh ám đấu, đấu đá công khai và ngấm ngầm. Nếu có can Quý kích hoạt Cự Môn Hóa Quyền, thì người này có thể là một giáo viên, có tiếng vang xa.
Nơi Cự Môn nhập Mệnh, sợ sát, thích Lộc và Quyền là đặc điểm của Cự Môn, đặc biệt thích đồng cung hoặc hội chiếu với Thái Dương miếu vượng.
Nếu Cự Môn nhập cung Mệnh, Thái Âm nhập cung Phu Thê là người có tài, khéo léo, có tài hùng biện. Thường có tranh chấp tình cảm hoặc ngoại tình do quan hệ công việc, nhưng bản thân lại không cảm thấy tội lỗi. Họ rất kín tiếng về vấn đề tình cảm của mình.

Nếu Cự Môn nhập cung Đại Hạn hoặc cung Lưu Niên, lại có Hóa Quyền (do can Quý gây ra) hoặc Hóa Lộc (do can Tân gây ra), hoặc có Lộc Tồn đồng cung, sự nghiệp của người này phát triển, người đó có thể tạo ra một sự nghiệp lớn và đạt được những điều tuyệt vời, biến hung thành cát, danh lợi song toàn. Nhưng nếu Hóa Kị (do can Đinh kích hoạt) hoặc hội chiếu Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh điều đó có nghĩa là người đó có họa phải ngồi tù liên quan đến chốn quan trường, hình khắc, hay bị họa binh lửa trộm cướp, nhiều tai họa vô cớ.
Nếu Cự Môn tại hai cung Tý và Ngọ nhập Mệnh, sẽ là “Thạch trung ẩn ngọc cách”, Cự Môn Hóa Quyền (do can Quý kích hoạt) và Hóa Lộc (do can Tân kích hoạt) đều là thượng cách. Nếu có Lộc Tồn đồng cung là đứng thứ 2,
không có Lộc Tồn hoặc Cát Hóa đứng cuối cùng, đều chỉ người phú quý song toàn. Nhưng không thích hợp mưu cầu đỉnh cao trong mọi việc thì cuộc đời bạn sẽ ở vị trí cao, tiền bạc nhiều. Nếu bạn theo đuổi đỉnh cao tham vọng lớn, sẽ có hậu quả xấu, hoặc sẽ bị mọi người chỉ trích, buộc tội, thậm chí hủy hoại làm thân bại danh liệt. Lúc này,bắt buộc phải nằm đối cung với Thiên Cơ. Phải gặp Lộc Quyền hoặc Lộc Tồn, thì mới tạo thành “Thạch trung ẩn ngọc cách”. Người này tài trí nội hàm, nghĩa là tài năng và trí tuệ của chủ nhân là vốn có, nhưng vì thích ẩn chứ không hiển, không thích hợp lên chức vị cao, cũng không nên xuất đầu lộ diện.
Cổ nhân viết: “Cự Môn Tý Ngọ Khoa Lộc Quyền, thạch trung ẩn ngọc phúc hưng thăng” tức là chỉ cách này. Tuy nhiên, nếu có Kình Dương đồng cung thì sẽ phá cách, người này sẽ khốn đốn, trì trệ. Theo kinh nghiệm của
ông Vương Đình Chi của trường phái Trung Châu, khi Lưu Niên cung Mệnh
đi tới cục này, nếu có Lưu Dương phi nhập sẽ không may mắn.
Nếu Cự Môn tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nhập Mệnh, hoặc Cự Môn nhập Mệnh, không có Hóa Lộc và Hóa Quyền, mà thêm tứ sát vào, hoặc Cự Môn
Hóa Kị nhập Mệnh, phần lớn đều là kẻ bội bạc và đạo đức giả, hoặc là kẻ ác thực sự hoặc là kẻ đạo đức giả, không hẳn là tiểu nhân mà là ngụy quân tử.
Cự Môn tại Thìn và Tuất nhập Mệnh, nếu Cự Môn lạc hãm, người sinh vào năm Tân ngược lại là kỳ cách, những năm khác đều không may mắn.
Nếu Cự Môn nhập Mệnh tại Thân, Thiên Đồng nhập Tý, Thiên Lương nhập Thìn, lại có tam cát hóa tại tả hữu cùng xung chiếu, thì người này tài năng xuất chúng.
Nếu Cự Môn tại hai cung Dần và Thân nhập Mệnh, phải đồng cung với Thái Dương, đều là người danh lợi song toàn, có thể trở thành đại phú, danh
tiếng vang xa, mà Cự Môn nhập cung Dần là thượng cách, tiếp đến là cung
Thân. Trong cung Dần lúc này, nếu cơ thể của người đó béo lên được coi là không hợp cách. Nếu đồng cung với Thái Dương tại Dần, không gặp tứ sát, Không và Kiếp, đây chính là “Cự Nhật đồng cung cách”, người đó sẽ được
phong quan ba đời. Tại cung Thân là thứ cách. Nếu đồng cung với Thái Dương tại Dần, tọa Mệnh tại Thân, hoặc Cự Môn và Thái Dương đồng cung tại Thân, tọa Mệnh tại Dần, đều là người thực lộc trì danh. Nhưng nếu Cự Môn nhập cung Tỵ, Thái Dương tại cung Hợi nhập Mệnh, lúc này Thái Dương lạc hãm, thì ngược lại không đẹp.
Nếu đồng cung với Thiên Cơ tại Mão nhập cung Mệnh thì đây là “Cự Cơ đồng lâm cách”, người sinh năm Ất, Bính, Kỷ, Tân, là quan chức nhà nước, không quý mà phú, bởi vì họ có Hóa Lộc (do can Tân kích hoạt dẫn đến Cự
Môn Hóa Lộc hoặc can Ất kích hoạt dẫn đến Thiên Cơ Hóa Lộc), hoặc Hóa Quyền (do can Quý kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Quyền hoặc can Bính kích hoạt dẫn đến Thiên Cơ Hóa Quyền), hoặc có Lộc Tồn đồng cung, lại có
Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt hội chiếu người này cực quý.
Nhưng đối với người sinh năm Giáp, bởi vì Giáp Lộc tại Dần, ở cung Mão có Kình Dương phá cách, thì lại bình thường. Nếu Cự và Cơ đồng cung tại Dậu, nó sẽ không đẹp, cho dù hóa cát, là quan chức giàu có thì cũng không được tới cùng. Mà nếu cô đơn và nghèo khó thì lại sống thọ. Tuy Cự giàu có nhưng không lâu dài, thêm Hóa Kị lại
càng hung. Thực ra khi có Hóa Lộc, Hóa Quyền hoặc Lộc Tồn đồng cung thì người này quý mà không thể hiện ra ngoài, phú nhưng không bền. So sánh mà nói, nếu Cự Môn và Thiên Cơ tại cung Mão nhập Mệnh, gia hội với Thái
Dương và Thái Âm của cung Sửu thì tốt hơn là tại cung Dậu mượn Thái Dương và Thái Âm từ cung Mùi, cho nên gặp các sao cát phò tá, cung Mão có thể quý hiển, phú bởi vậy mà được lâu dài, mà nhược điểm là cung Dậu có
quý mà không hiển, giàu có nhưng không lâu dài.
Người xưa nói: “Cự Cơ cư Mão, Ất Tân Kỷ Bính nhân vị chí công khanh”. Lại có câu: “Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, tung ngộ tài quan dã bất vinh” tức là ý này. Nếu Cự Môn tại cung Thìn nhập Mệnh, có Hóa Quyền (do can Quý kích hoạt) hoặc Hóa Lộc (do can Tân kích hoạt) người này có cách giàu có, nếu lại gặp Lộc Tồn sẽ đại phú. Nếu cùng Văn Xương đồng nhập Mệnh cung tại
cung Thìn mà có can Tân kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Lộc và Văn Xương Hóa Kị, đây là kì cách nhất, cũng có nghĩa là người đó sẽ đại phú đại quý. Bởi vì lúc này vị trí sao Thiên Đồng trong cung Tuất mới có thể hóa giải cái ác của Hóa Kị.
Nếu Cự Môn nhập Mệnh tại hai cung Tỵ và Hợi, độc tọa, mà phải nằm đối với Thái Dương, thì Cự Môn tại cung Hợi nhập Mệnh là cát, lúc này gặp Thái Dương tại cung Tỵ, nhập miếu. Khi Cự Môn tại cung Tỵ nhập Mệnh, Thái Dương tại cung Hợi, lạc hãm, không tốt cho cha ruột, và phải trải qua gian khổ rồi mới gây dựng nên sự nghiệp. Hơn nữa, Cự Môn tại cung Hợi rấtdễ thu hút thị phi nên không thích hợp để ở xuất đầu lộ diện, nên tránh kiêu
ngạo. Trong đó:Nếu Cự Môn nhập Mệnh tại cung Tỵ, sẽ bất lợi cho cha người này, nhưng khi còn nhỏ nếu được đem đi cúng bái thì có thể được hóa giải, nếu không anh ta sẽ xung khắc với cha mình, hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khi còn nhỏ. Người đó nên học các kỹ năng chuyên môn, nhưng làm việc vất vả là điều không thể tránh khỏi. Nếu có Lộc Tồn đồng cung thì phúc dày, tài lộc dồi dào, nhưng tính tình tiết kiệm, thận trọng, sẽ giàu có. Nếu có can Quý
kích hoạt Cự Môn Hóa Quyền, hoặc có can Tân kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Lộc, thì người này dũng cảm tuyệt vời, giỏi khởi nghiệp, chủ quý. Nếu Cự Môn nhập Mệnh tại cung Hợi, lại có can Quý kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Quyền, hoặc có can Tân kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Lộc, hoặc có Lộc Tồn đồng cung, chủ nhân giàu có cao quý, danh tiếng vang xa, nhưng người này sẽ bởi vì quá sắc bén nên vô cùng kiêu ngạo, dễ dàng bị người khác chỉ trích.
Cần lưu ý rằng Tham Lang nói trên nhập vào vị trí các cung khác nhau nhưng đều có tam phương tứ chính mà không gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh là hợp cách.
Nếu đồng cung với Thiên Đồng, người này sẽ có hình khắc, vất vả, nhiều thị phi. Ngay cả khi có Hóa Lộc và Hóa Quyền thì tuy có điềm lành nhưng không dài. Nếu lại có Dương và Đà đồng cung, chủ nhân có khuynh hướng
gian dâm.
Nếu Cự Môn và Thiên Đồng đối chiếu, người đó dễ mắc bệnh gan và túi mật.

Nếu Cự Môn nhập Mệnh tại cung Tuất, có Hóa Quyền (do can Quý kích hoạt) hoặc Hóa Lộc (do can Tân kích hoạt) đều là kì cách, đây là bởi vì Thái Dương tại cung Ngọ, là mặt trời ở giữa trưa, nó ở cực điểm, là nhật lệ trung thiên, hội chiếu Cự Môn, thì sự u ám sẽ bị tiêu trừ. Nếu đồng cung với Thái Dương, sắc mặt sẽ có màu đỏ trắng hoặc đỏ
vàng. Khuôn mặt hình chữ nhật hoặc thuôn dài. Nếu đối chiếu với Thái Dương, lúc này Cự Môn vượng, đây là người quang minh chính trực, phú quý hiển vinh. Tính cách trung thành, khuôn mặt ưu tú, kỹ năng chuyên nghiệp, tài hùng biện tốt, có thể lập luận nhanh chóng, có chính kiến, không bận rộn, học nhiều nhưng ít kỹ năng, có thể học luật, cơ khí, y học và giải trí, hoặc là một giáo viên của công chúng hoặc một thủ lĩnh của một băng đảng. Nếu Cự Môn tại hai cung Thìn và Tuất một mình nhập cung Mệnh, đối cung phải là Thiên Đồng nhưng hai vị trí này đều không tốt lành. Cổ nhân viết: “Thìn Tuất ứng hiềm mộ Cự Môn” là cách nói này. Tuy nhiên, Cự Môn nhập cung Thìn nếu gặp Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc thì vẫn chủ sự giàu có. Ngoài ra, nếu Tham Lang tại cung Thìn nhập Mệnh, còn có một tổ hợp quan trọng khác: Cự Môn và Văn Xương đồng cung. Người sinh năm Tân phú quý không luận (bởi vì can Tân kích hoạt dẫn đến Cự Môn Hóa Lộc và Văn Xương Hóa Kị). Nếu tham Lang tại cung Tuất nhập Mệnh, gặp cát hóa, đều là kì cách.
Nếu Cự Môn và Văn Xương đồng cung, đa phần người này sẽ đánh mất tham vọng của mình.
Đối với Cự Môn nhập Mệnh, không nên có tứ sát đồng hội, để người đó dễ bị quan chức hoặc chủ sự xung khắc. Trong đó: nếu cùng Hỏa, Kình Dương, đồng nhập cung Mệnh, Đại Tiểu Hạn, gặp phải ác sát tinh, người đó
có thể treo cổ tự tử. Nếu đồng cung với Kình Dương nhập cung Mệnh, lại thêm Hỏa Tinh, người đó sẽ chết một cách thảm khốc.
Nếu tại Dần và Thân đồng cung Hỏa Tinh nhập cung Mệnh, hoặc Cự Môn và Hỏa Tinh cung nhập cung Tật Ách đều không tốt. Cự Môn, Kình Dương, Liêm Trinh, Hỏa Tinh đồng cung sẽ bị tật nguyền tay chân.
Nếu gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kiếp Sát, Thiên Hình, Âm Sát gia hội mà không có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền đến hóa
giải, người này sẽ nhảy xuống sông tự vẫn, uống thuốc độc, tự tử, v.v… Hoặc gặp hỏa hoạn, hoặc bị điều ra tiền tuyến, hoặc phải bôn ba ngàn dặm. Làm mọi việc đảo lộn, mà không thu được gì.
Nếu đồng cung với Đà La, trên cơ thể của người này có nốt ruồi đặc biệt. Nếu Cự Môn nhập mệnh, gặp Dương và Đà thì nam nữ tà dâm. Nếu gặp Hỏa Tinh, ắt có nốt ruồi dị biệt. Nếu Cự Môn nhập Mệnh, gặp Kình Dương và Hỏa Tinh, có can Đinh làm cho Cự Môn Hóa Kị, hoặc Liêm Trinh nhập Mệnh, gặp Kình Dương và Hỏa Tinh, có can Bính làm cho Liêm Trinh Hóa Kị, người này sẽ bị tàn tật, mắc bệnh không tìm ra nguyên nhân. Nếu đồng cung với Dương và Đà, hoặc cùng nhập cung Tật Ách thì da vàng, thân thể yếu ớt, nghèo khó, tàn tật, vận số tốt, công việc vất vả.
Nếu đồng cung với Hỏa và Linh, đây là “Cự phùng tứ sát cách”, khi gặp phải ác hạn (tức là Đại Tiểu Hạn ngộ ác sát) người này cả đời ưu phiền khốn khó, chết do ngoại đạo. Nếu không gặp Tử Vi và Lộc Tồn đến áp chế, người đó sẽ bị điều đi hàng ngàn dặm, gặp hung. Nếu Cự Môn gặp Lưu Sát thì người đó trong Lưu Niên không tốt.
Nếu đồng cung với Không và Kiếp thì cuộc sống của người đó sẽ khó khăn và có khả năng bị bỏ rơi từ nhỏ.
Cự Môn tọa Mệnh, tam hợp có Sát Tấu, tất sẽ gặp hỏa ách. Lúc này nếu gặp Thái Dương, thì cát hung giảm một nửa.
Nếu Cự Môn và Sát Tinh cùng nhập cung Mệnh, hoặc Cự Môn Hóa Kị nhập Mệnh, hoặc cùng với Thiên Đồng tại Sửu và Mùi nhập Mệnh, người này keo kiệt, coi trọng tiền bạc, của cải, hay tính toán với người khác, bởi vậy khiến những người xung quanh không thoải mái, gây phản cảm.
Cự Môn gặp Hóa Lộc (do can Tân dẫn đến), lại gặp thêm cát tinh, thì người này sẽ có một sự nghiệp thành công. Ngoài ra, gặp Hồng Loan, Thiên Hỉ, Xương, Khúc, Thiên Diêu, Hàm Trì, Hóa Khoa hầu hết đều là những người nổi tiếng trong ngành giải trí.
Cự Môn cùng Hóa Lộc và Hóa Quyền nhập Mệnh đa phần đều có trình độ đại học.
Nếu có can Quý kích hoạt Cự Môn Hóa Quyền, hoặc can Tân kích hoạt Cự Môn Hóa Lộc, gia hội thêm Lộc Tồn, thì chủ nhân sẽ có thể có phú có quý. Người này có thể phát huy tài hùng biện của Cự Môn để đạt được mục
tiêu của mình. Nhưng nó thường khiến mọi người khẩu phục nhưng tâm không phục.
Nếu có can Đinh kích hoạt Cự Môn Hóa Kị, trong chốn quan trường sẽ nhiều lời đàm tiếu, buôn chuyện, tai họa ập đến. Nhiều việc xảy đến nhưng ít đưa ra được quyết định, thiếu quyết đoán. Cũng cần đề phòng trộm cắp, kẻ
nói dối và kẻ trộm. Lại hội chiếu tứ sát và các hung tinh mà không có cát tinh hóa giải, dễ xảy ra các sự cố như chết đuối trên sông, uống thuốc độc và tự tử…
Nếu Cự Môn nhập cung Mệnh tam phương, mà can cung Điền Trạch hoặc can cung Tật Ách là can Đinh, điều đó nói lên là kẻ trộm. (Lưu ý: điều cần kiểm tra là: bản thân người đó có phải là đạo tặc hay không, hay là kẻ
trộm từ bên ngoài vào). Xem “Cự Môn nhập cung Điền Trạch”.
Nữ mệnh, khi Cự Môn nhập Mệnh, không may mắn, ưu điểm là cẩn thận, nhược điểm đa nghi, tình duyên luôn thay đổi, thường là vợ lẽ. Nếu đồng cung với Thiên Cơ thì người này phóng đãng. Nếu đồng cung với Thiên Cơ nhập Mệnh tại Mão và Dậu, tuy giàu sang phú quý nhưng khó tránh khỏi dâm ô. Cổ nhân nói: “Cự Môn Thiên Cơ vi phá đãng” là chỉ nữ mệnh gặp Cự Môn và Thiên Cơ cùng nhập cung Mệnh. Người dù giàu sang vinh hoa cũng
không tránh khỏi dâm dật. Nữ mệnh nếu Cự Môn nhập miếu chi địa nhập Mệnh hoặc có Lộc Tồn, Hóa Quyền, Hóa Lộc sẽ chủ phú chủ quý, mà thọ mệnh được kéo dài. Nếu Cự Môn lạc hãm hoặc Hóa Kị thì nhiều chuyện sẽ gây phiền nhiễu và rắc rối.
Hơn nữa, Hóa Kị nhập Mệnh thì những người này có xu hướng gian dâm Đặc biệt điều đó càng rõ ràng hơn khi gặp Dương và Đà. Nếu hội chiếu với Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình thì người này hình khắc thọ yểu, nên là vợ lẽ, nhưng vẫn không tránh khỏi nhiều tranh đấu.
Tình trạng khi nữ và nam có Cự Môn nhập Mệnh đều giống nhau, nên xem cát hóa và Lộc Tồn. Trong xã hội hiện đại, đàn ông và phụ nữ đều phải gánh vác công việc sự nghiệp, ngay cả khi Cự Môn Hóa Kị, họ cũng có thể cống hiến hết tài năng hùng biện của mình cho những ngành nghề chú trọng đến kỹ năng lời nói để hóa giải. Chẳng hạn như: diễn viên, nhân viên tiếp thị, ngoại giao, giáo viên đều thuộc loại này.

Nữ mệnh, nếu đồng cung với Thiên Đồng, tình cảm của người đó sẽ rất rắc rối, cho dù có Hóa Lộc cũng chỉ là cuối cùng có kết quả mà thôi

Bài viết liên quan

Thần số học là gì?Các khái niệm trong Thần số học?

Thần số học là gì?Các khái niệm trong Thần số học?

25 - 01 - 2024

Thần số học là gì? Thần số học là một hệ thống nghệ thuật và khoa học cổ điển liên...

Sao Thiên Không? Hạn Thiên Không, đại vận gặp Thiên Không?

Sao Thiên Không? Hạn Thiên Không, đại vận gặp Thiên Không?

24 - 01 - 2024

Sao Thiên Không? Sao Thiên Không là sao Không Vong, có tính chất hư vô, mang năng lượng của sự...

Bộ sao quý nhân: Thiên quan - Thiên phúc

Bộ sao quý nhân: Thiên quan - Thiên phúc

21 - 01 - 2024

Bộ sao quý nhân: Thiên quan - Thiên phúc Thiên Quan và Thiên Phúc là hai phúc thiện tinh, chủ...

SAO TỬ VI

SAO TỬ VI

27 - 11 - 2023

SAO TỬ VI Sao Tử Vi là đế tinh, chủ tể toàn bộ các tinh diệu trong Lá Số Tử...

SAO HÓA KỴ

SAO HÓA KỴ

27 - 11 - 2023

SAO HÓA KỴ 1. Tổng quan về sao Hóa Kị Hóa Kị thuộc về Dương Thủy. Đó là vị thần của...

SAO THIÊN HÌNH

SAO THIÊN HÌNH

27 - 11 - 2023

SAO THIÊN HÌNH 1. Tổng quan về sao Thiên Hình Thiên Hình thuộc Bính Hỏa, Dương hỏa. Trong Đẩu Số chủ...