Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ai?

Ngày đăng: 22 - 07 - 2023 Lượt xem: 23 lượt

1. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ai?

Theo kinh sử và tài liệu lưu truyền trong phật giáo thì tên của Phật là Siddhārtha Gautama (tiếng Phạn: सिद्धार्थ गौतम, chữ Hán: 悉達多瞿曇, phiên âm Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay Gautama Buddha (Phật Gau tam), còn được gọi là Phật Shakyamuni (tiếng Phạn: शाक्यमुनि, chữ Hán: 釋迦牟尼, phiên âm Hán-Việt: Thích-ca Mâu-ni, trong khẩu ngữ thường gọi là Phật, Bụt, Phật Tổ, Đức Thế Tôn hoặc Đức Phật) là nhà tu hành, nhà truyền giáo, nhà thuyết giảng, nhà triết học và đạo sư sống ở Ấn Độ cổ đại, người sáng lập Phật giáo.

Sinh ra ở vùng đất ngày nay là Nepal nhưng khoảng thời gian quan trọng nhất của Tất-đạt-đa gắn liền với các khu vực mà ngày nay là Ấn Độ khi ông đi xuống phía Đông và Nam để truyền đạo. Tín đồ Phật giáo xem ông là người đầu tiên hoàn toàn giác ngộ để đạt niết bàn thành Phật.

Theo kinh Phật cùng sử liệu thì ông vốn xuất thân là một thái tử thuộc vương tộc Gautama của tiểu quốc Shakya ở vùng Kapilavastu. Tuy nhiên, ông sớm từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý để lên đường đi tìm chánh đạo. Sau 6 năm tu đạo, ông đạt được giác ngộ chính pháp vào năm 35 tuổi và dành tiếp 45 năm còn lại cho việc truyền bá, giảng dạy giáo lý Phật pháp trên khắp những khu vực ở Đông và Nam tiểu lục địa Ấn Độ. Tất-đạt-đa đề xướng con đường Trung đạo – tức vừa từ bỏ đời sống xa hoa nhưng cũng không đi theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó. Giáo pháp của ông đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển của giáo lý đạo Phật ngày nay.

Ông được các Phật tử coi là một bậc đạo sư, người giác ngộ tự giải thoát bản thân khỏi quy luật sinh tử luân hồi đồng thời hiểu rõ được bản chất của mọi sự vật sự việc. Chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của ông được nhiều thế hệ học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập Niết-bàn. Hàng loạt bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua nhiều thế hệ và dần bắt đầu được viết thành sách 200 năm sau đó.

2.Sự tích cuộc đời của Đức thế tôn Thích Ca Mâu Ni

Chuyện kể Hoàng Hậu Maya là một người đạo đức và tràn ngập lòng từ bi. Bà là vợ của vua Tịnh Phạn thành Ca-Tỳ-La-Vệ(Kapilavastu), đã lớn tuổi rồi mà chưa có con. Một ngày kia, hoàng hậu Maya nằm mộng thấy được chở đi bởi 4 thiên thần đến hồ Anotatta bên dãy Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn). Sau khi tắm trong hồ, các thiên thần đã mặc cho bà bộ quần áo của cõi trời, xức dầu thơm cho bà, và trang điểm cho bà bằng những bông hoa tuyệt đẹp. Một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm an lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một bậc thánh nhân, là Chuyển luân Thánh vương (vua của các vị vua) hoặc một bậc Thánh giác ngộ.

Theo các kinh điển Phật giáo, ngay từ lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Tên được chọn là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) có nghĩa là “người thành đạt mọi nguyện vọng”.

Ngay từ khi sinh ra, nhà tiên tri A Tư Đà người Bà La Môn dự đoán sẽ trở thành bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại, bậc trí tuệ cao siêu, Chánh đẳng Chánh giác.

Vì không muốn Đức Phật Thích Ca đi tu nên Ông đã cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, cho thái tử hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý, nhất là không để thái tử tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời. Sau này, Phật kể lại: “Đời sống của ta (lúc bấy giờ) thật là tế nhị, vô cùng tinh tế. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh sen trắng đua nhau khoe vẻ đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Ca-tây (Kāsi) đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Ca-tây chở đến”..

Ngày nay chúng ta có thể nói rằng ông ấy có mọi thứ trên đời, nhưng ông ấy cảm thấy mình thiếu một cái gì đó, và đó là điều đã kéo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra khỏi bức tường của ông ấy.

Bên ngoài, trên đường phố Kapilavastu, Ngài thấy ba cảnh tượng phổ biến nhất mà mọi người nhìn thấy: một người bệnh, một ông già yếu ớt và một xác chết.

Ngài chưa bao giờ chuẩn bị để chứng kiến những cảnh bi thảm như vậy, cho đến khi người đánh xe ngựa nói với ngài rằng tất cả mọi người đều phải chịu tuổi già, bệnh tật và cái chết.

Ông cảm thấy mình không còn được sống xa hoa như trước.

Trên đường trở về cung điện, nhìn thấy một nhà sư đang thong thả dạo bước trên phố, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quyết định tìm cầu giác ngộ, rời cung điện để tìm lời giải cho bài toán đau khổ của cuộc đời.

Trong đêm khuya, ông lặng lẽ từ biệt vợ con mà không đánh thức họ, rồi phi ngựa vào một khu rừng, lấy gươm cắt tóc và thay áo cà sa giản dị. Đó là năm ông 29 tuổi, (595 TCN).

Với hành động này, Thái tử Tất Đạt Đa đã gia nhập hàng ngũ những người từ bỏ xã hội Ấn Độ để đi tìm sự giải thoát.

Hoàng tử đã tìm cách học hỏi từ nhiều bậc thầy khác nhau, từ những người theo chủ nghĩa duy vật đến những người theo chủ nghĩa duy tâm và những người ngụy biện.

Từ miền núi đến thành phố, đâu đâu cũng diễn ra những cuộc tranh luận và triết lý sôi nổi. Cuối cùng, Thái tử theo học với hai vị thầy nổi tiếng, người thứ nhất là Guru Alara-Kalama, thuộc giáo phái Samkhya, và ba trăm đệ tử đang theo học.

Với địa vị này, Thái tử đã tu học và đắc được ngũ thần thông, đạt đến Vô sở thiền

Nhưng về sau, mặc dù Guru Arada Kalama mời ông ở lại dạy đạo với tư cách là một bạn đồng tu, nhưng ông thấy rằng đây không phải là sự giải thoát tối thượng và đã ra đi.

Anh ấy đến học với người thầy thứ hai của mình, Guru Uddaka Ramaputta (Uddaka-lam-fu), người có 700 đệ tử. Sau vài ngày tu học, ngài đắc thiền phi tưởng.

Nhưng đây không phải là con đường giải thoát khỏi luân hồi, và Siddhartha cũng quyết định rời bỏ người thầy này.

Trong sáu năm, Thái tử Tất Đạt Đa và năm người bạn Kiều Trần Như tu khổ hạnh và thiền định, mỗi ngày chỉ ăn một hạt cơm, chiến đấu với thân xác chỉ còn da bọc xương.

Khi anh quyết định ăn nhiều thức ăn hơn và ngừng tu khổ hạnh, năm người bạn khác đã bỏ rơi anh.

Ngài đến một ngôi làng khất thực, ở đó có một cô gái tên là Sujata mời ngài dùng một bát cháo sữa với mật ong.

Khi sức khỏe hồi phục, Ngài xuống sông Nairanjana tắm rửa rồi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, trên chiếc ghế làm bằng cỏ kusha.

Ngài ngồi đó sau khi nghe tất cả các bậc thầy, nghiên cứu tất cả các kinh điển và thực hành tất cả các pháp, bây giờ không còn chấp trước, không còn ai để nương tựa, không còn chỗ nào để đi.

Ngài ngồi thiền bất động, kiên định như núi, cho đến bảy ngày sau, khi mở mắt thấy sao mai vừa mọc trên trời, Ngài biết mình đã tìm được một điều chưa bao giờ đánh mất, dù không phải là nó cho Ngài hay cho bất cứ ai khác trên thế giới này.

Đức phật Thích Ca Mâu Ni chứng ngộ dưới cội bồ đề

3.Phật Thích Ca Mâu Ni có thật không?

Ngài là vị Phật có thật trong lịch sử. Và Ngài cũng chính là vị Phật đầu tiên – Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm của vương quốc Thích Ca, thuộc Ấn Độ ngày nay.

Ngài sinh năm 624, sau khi thấu hiểu hoàn cảnh cuộc đời “sinh lão bệnh tử” cũng như sự thanh thản của người xuất gia, Ngài đã quyết tâm đi vào con đường tu hành. Sau khi trải qua mọi khó khăn thử thách, Ngài đã đạt được chính đạo, trở thành vị Phật đầu tiên, đặt nền móng cho Phật giáo sau này.

4.Phân biệt Phật Thích Ca Mâu Ni với Phật A Di Đà:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc thầy của cõi Ta bà. Ngài đã từng sống ở trần gian và sáng lập ra đạo Phật và còn được gọi là Phật Tổ. Và Phật A Di Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa.

Đức Phật A Di Đà là chủ nhân của cõi Tây Phương Cực Lạc. Tên của Ngài có nghĩa là Vô Lượng Thọ, nghĩa là ánh sáng vô lượng.Đức Phật A Di Đà là vị Phật xuất hiện trong kinh Phật chứ không phải là vị Phật lịch sử như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

5. Phật Thích Ca có phải là Phật Tổ không?

Với thông tin trên thì nếu bạn đang thắc mắc Phật Thích Ca có phải là Phật Tổ hay không thì lời giải đáp đó chỉ là một người. Phật Tổ chính là một biệt hiệu khác của Phật Thích Ca.

“Như Lai” được dịch từ chữ “ Tathagata” trong tiếng Phạn. “Như” còn gọi là “Như Thục” hay “Chân Như” là để chỉ chân lý tuyệt đối, chân tướng của sự thật, bản thể của vũ trụ vạn hữu. “Lai” còn có nghĩa là đến.

“Như Lai” là chỉ những người đến bằng con đường chân thực, những người thấy rõ chân lý, những người đi theo con đường đúng đắn đến được chính xác. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong số những người đến bằng cách như vậy nên được gọi là “Như Lai”.

Từ Như Lai nếu dùng trong phạm vi hẹp thì là một tôn hiệu riêng của đức Phật Thích Ca nhưng xét rộng ra thì còn được dùng để chỉ tất cả các vị Phật khác như như là Phật A Di Đà Như Lai, Phật Dược Sư Như Lai,..

Không chỉ Phật Tử trên thế giới mà ngay cả những người không theo đạo chắc chắn đã từng gặp hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni hay Phật Tổ được tạc khắc thành tượng hay phác hoạ qua tranh ảnh được trưng bày nhiều nơi, nhất là những nơi như chùa chiền, nời thờ cúng của Phật Giáo trong các triều đại lịch sử hàng trăm, nghìn năm trước.

6. Phật Thích Ca có bao nhiêu đệ tử

Phật Thích Ca Mâu Ni có 10 đại đệ tử và mỗi đệ tử lại có một đặc điểm riêng:

  1. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputra – Sariputa) : Trí tuệ đệ nhất.
  2. Tôn giả Mục Kiền Liên (Maudgalyayana – Moggallana): Thần thông đệ nhất.
  3. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa-Mahakassapa): Đầu đà đệ nhất.
  4. Tôn giả A Nâu Đà La (Aniruddha – Anurauddha): Thiên nhãn đệ nhất.
  5. Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhuti): Giải không đệ nhất.
  6. Tôn giả Phú Lâu Na ( Purna – Punna): Thuyết pháp đệ nhất.
  7. Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana – Kaccayana, Kaccana): Luận nghị đệ nhất.
  8. Tôn giả Ưu Ba Ly ( Upali): Trì giới đệ nhất.
  9. Tôn giả Anan ( Ananda): Đa Văn đệ nhất.
  10. Tôn giả La Hầu La (Rahula): Mật hạnh đệ nhất (cũng chính là con trai của ngài)

Sống Plus tổng hợp

Bài viết liên quan

Bồ Tát là ai? Phật là ai? La Hán là ai?

Bồ Tát là ai? Phật là ai? La Hán là ai?

24 - 07 - 2023

Bồ Tát là ai? Bồ-tát đầy đủ là Bồ-đề-tát-đóa (dịch từ tiếng Phạn: bodhisattva), dịch ý là Giác hữu tình...

Sơ đồ tượng phật trong Chùa

Sơ đồ tượng phật trong Chùa

21 - 07 - 2023

Tùy theo tập quán mỗi Quốc gia, Tông phái, Pháp môn mà sự thờ phượng bài trí có đôi...

Cõi Ta Bà là gì và ở đâu?

Cõi Ta Bà là gì và ở đâu?

20 - 07 - 2023

Trong Phật Giáo, cõi Ta Bà là một ý niệm, một góc nhìn về thế giới mà trong đó...

Ta Bà Tam Thánh gồm những ai? Ý nghĩa bộ tượng và cách thờ

Ta Bà Tam Thánh gồm những ai? Ý nghĩa bộ tượng và cách thờ

20 - 07 - 2023

Ta Bà Tam Thánh hay Sa Bà Tam Thánh bao gồm ba vị là Thích Ca Mâu Ni Phật,...

Nhân sinh bao la, gặp gỡ trong đời một chữ 'duyên'

Nhân sinh bao la, gặp gỡ trong đời một chữ 'duyên'

27 - 06 - 2023

Nhân sinh bao la, gặp gỡ trong đời một chữ 'duyên' Sống trên đời này, được sống cùng người thân,...

Giáo lý Duyên Khởi 12 nhân duyên trong Đạo Phật

Giáo lý Duyên Khởi 12 nhân duyên trong Đạo Phật

24 - 06 - 2023

Nay, một người bạn tôi đã phát biểu " Anh em làm cùng nhau, chơi cùng nhau thì xem...