Nay, một người bạn tôi đã phát biểu ” Anh em làm cùng nhau, chơi cùng nhau thì xem như là có duyên với nhau lắm rùi khách sáo làm gì em”. Khởi lên trong lòng tôi muốn tìm hiểu về chữ Duyên kia!
Theo Bách khoa toàn thư WikipediA
Giáo lý Duyên khởi cũng được gọi là Nhân duyên sinh hay Nhân duyên, và vì bao gồm 12 thành phần nên cũng có tên khác là Thập nhị nhân duyên là một trong những giáo lý quan trọng nhất của đạo Phật.
Giáo lý này chỉ rõ là mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong luân hồi.
Giáo lý Duyên khởi được ghi lại trong kinh như sau (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):
- Imasmiṃ sati, idaṃ hoti; imass`uppādā, idaṃ uppajjati; imasmiṃ asati, idaṃ na hoti; imassa nirodhā, idaṃ nirujjhati. (MN II.32, SN II. 28)
- Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt.
Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau: Vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử

12 nhân duyên trong giáo lý Duyên khởi nhà Phật
1. Vô minh
Không sáng. Vô Minh tức là sự mù mờ, là bóng tối, không hiểu, hiểu lầm, mê mờ, hồ đồ, rối rắm. Vô minh ở đây chủ yếu là vô minh về Tứ Thánh Ðế, vô minh về lý nhân duyên, vô minh về quá khứ và hiện tại của chúng ta
2. Vô minh duyên Hành
Do vô minh, đôi khi chúng ta làm những hành động thiện, nhưng phần lớn chúng ta làm những hành động bất thiện, vì đa phần những điều chúng ta làm đều bắt nguồn từ tham và sân. Dưới ảnh hưởng của vô minh chúng ta làm đủ mọi loại hành động. Thật ra, vì chúng ta không biết đâu là đúng, đâu là sai, hoặc chúng ta chỉ hiểu chung chung rằng những hành động thế này là thiện, những hành thế kia là bất thiện. Vì mù quáng bởi vô minh mà chúng ta thường làm những điều lầm lạc, dù rằng đôi khi chúng ta cũng làm được những việc tốt.
Hai chi phần này, vô minh và hành, thuộc thời quá khứ, và đây là hai yếu tố đã đem chúng ta đến thế gian này. Những hành động thiện trong quá khứ của chúng ta như bố thí, trì giới, có những ý nghĩ tốt đẹp, v.v. là những thiện nghiệp (kusala-kamma), đã giúp chúng ta sinh ra làm người, có mặt trong thế gian này
3.Hành duyên Thức
Tùy thuộc nơi hành nghiệp, thiện và bất thiện, chi phần thứ ba khởi sinh, đó là thức (viññāna), tức tái sinh trong thế gian này. Thức sinh khởi như kết quả của vô minh và hành trong quá khứ. Vì chứa tính sai lầm, vì chứa mầm khổ đau cho nên gọi là Thức. Nếu không thì nó đã được gọi là Trí. Có Vô Minh gọi là Thức, có Minh ta gọi là Trí.
4. Thức duyên Danh sắc
Sắc tức là phần vật chất, sinh lý và Danh là phần tâm lý, ý thức. Tâm không thể làm việc một mình, nó có một số tâm sở (cetasika) phối hợp làm việc chung với nó, và vì là tâm nên nó không thể tồn tại đơn độc, nó cần một cái thân vốn là kết quả của những hành động trong quá khứ. Kết quả của tái sinh, chúng ta có tâm và thân, tức là danh (nāma) và sắc (rūpa). Danh là phần tinh thần, còn sắc là phần vật chất, là cái thân này. Danh Sắc nằm trong Thức. Sắc là đối tượng của Thức mà Danh cũng là đối tượng của Thức.
Ví dụ khi chúng ta nhìn bàn tay, thì bàn tay là đối tượng của Thức. Khi chúng ta tiếp xúc với cái giận, cái buồn, với hạnh phúc của chúng ta thì cái giận, cái buồn, vá cái hạnh phúc ấy cũng là đối tượng của Thức.
5. Danh sắc duyên Lục nhập
Lục nhập tức là sáu căn và sáu trần. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Do có thân và tâm, hay danh và sắc, ta có sáu căn hay sáu nhập (āyatana). Chúng ta có năm căn bên ngoài: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân. Còn gọi là ngũ môn hay năm cửa. Chẳng hạn qua nhãn môn, chúng ta tiếp nhận một đối tượng của sự thấy, và qua nhãn môn, chúng ta buông bỏ đối tượng đó; vì thế, con mắt có hai chức năng: thu nhận và buông bỏ. Từ “căn” được dùng ở đây với ý nghĩa của một căn cứ, dựa vào đó mà tâm có thể thực hiện.
Căn thứ sáu là ý căn. Đây là một căn thuộc bên trong, hay nội môn. Nó không những chỉ là một căn hay môn, mà nó cũng còn là dòng tiến sinh của chúng ta – trong Pāli gọi là bhavanga hay hữu phần. Chính dòng tiến sinh này dẫn chúng ta đi hết kiếp sống này đến kiếp sống khác trong vòng sinh tử luân hồi
6. Lục nhập duyên Xúc
Ta có sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; ngoài kia có sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp làm đối tượng, thì ta có xúc (phassa). Xúc là sự va chạm hay tiếp xúc giữa một đối tượng giác quan bên ngoài với bề mặt của bộ máy cảm giác tương xứng, hay giữa căn và trần(cảnh).
Chẳng hạn, khi một cảnh sắc và phần nhạy cảm của con mắt (tức nhãn căn) nằm trong một khoảng cách thích hợp và có ánh sáng thích hợp, lúc đó, sự tiếp xúc giữa căn và cảnh khởi sinh, hình sắc đó tiếp chạm với phần nhạy cảm của con mắt. Tương tự như vậy với âm thanh và nhĩ căn, mùi hương và tỷ căn, v.v.
7. Xúc duyên Thọ
Vì có xúc nên ta có cảm giác, như vậy, thọ (vedanā) phát sinh. Sự xúc chạm tạo ra cảm thọ dễ chịu, khó chịu hay là trung tánh. Ví dụ như: yêu, thích, ganh ghét, đố kỵ, lo sợ, hạnh phúc, ưu sầu, thất vọng, hối tiếc, khó chịu, sân giận,…
8. Thọ duyên Ái
Vì có thọ mà ái (tanhā) khởi sinh, không có thọ thì tham ái không sinh khởi. Thọ lạc thì sinh Ái. Sự ham muốn từ các giác quan như mắt ưa thích sắc đẹp, mũi thích hương thơm, tai ưa tiếng hay, lưỡi đắm vị ngọt, thân ưa xúc chạm êm ái hay Ngũ dục : Tiền tài; Danh vọng; Sắc đẹp; Ăn ngon; Ngủ nghỉ…Còn đối với các cảm thọ khó chịu thì sao? Trong bộ luận Thanh tịnh đạo, có giải thích: “Một bệnh nhân đang có một cơn đau kinh khủng, có một cảm thọ khó chịu. Lúc đó, tham vẫn khởi lên, bởi vì người ấy có một ước muốn thoát ra khỏi cơn đau đó, muốn thoát ra khỏi cái cảm thọ khó chịu đó. Như vậy tham khởi lên bằng hai cách: theo cảm thọ dễ chịu và theo cảm thọ khó chịu”
9. Ái duyên Thủ
Một khi ái đã sinh thì chấp thủ (upādāna) liền theo sau. Sự khác biệt giữa ái và thủ là sự chiếm hữu: ái là sự tham muốn, sự vướng mắc, còn thủ lại là sự mắc kẹt, buộc chặt chúng ta vào một cái gì đó, giành giữ lấy, chiếm lấy cho mình.
10. Thủ duyên Hữu
Vì có chấp thủ, nên tạo duyên để tạo hiện hữu. Hữu (bhava) nghĩa là ta đang khởi sự trở thành, thu thập nghiệp lực mới cho đời sống tương lai. Hữu có hai mặt: nghiệp hữu (kamma-bhava) là hành động tích lũy của quả dị thục, và sinh hữu (uppatti-bhava) là quả dị thục hướng đến tái sinh. Nói một cách khác, do duyên ái và thủ, chúng ta hành động tạo nghiệp, bây giờ là những hành động hiện tại (là nghiệp hữu), và đồng thời, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tái sinh trong tương lai (là sinh hữu).
11. Hữu duyên Sinh
Do bởi những hành động hay nghiệp hiện tại, chúng ta đang chuẩn bị cho lần tái sinh sắp tới, đó là tái sinh hay sinh (jāti), mang ý nghĩa của sự khởi đầu của kiếp sống tương lai.
12. Sinh duyên Già & Chết
Do tái sinh trong thế gian nên ắt sẽ đưa đến già chết (jarā-marana). Jarā là tuổi già, già một cách dần dần, và rồi, marana là chết. Tất cả mọi hiện tượng xảy ra như một hệ quả tất nhiên. Chúng ta đã sinh ra nên phải chịu buồn rầu, bi, khổ, ưu, não, tuyệt vọng, v.v. vì chúng sẽ hiện khởi như kết quả của việc sinh. Có sinh ắt có diệt là như vậy.
Chúng ta thấy ở đây có cả thảy mười hai chi phần, thường được phân thành ba thời: quá khứ, hiện tại, và vị lai. Hai chi vô minh và hành thuộc về quá khứ; năm chi: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ thuộc hiện tại, xem như là quả dị thục của quá khứ. Ái, thủ, hữu cũng thuộc hiện tại và làm nhân cho tương lai. Sinh và già chết thuộc về tương lai, kết quả của những nhân đã gieo trong hiện tại. Từ sinh đến già chết, chỉ có hai chi được đề cập ở thời tương lai; tuy nhiên, chúng bao hàm cả năm chi phần trong nhóm quả dị thục hiện tại – từ thức đến thọ. Sự kết hợp của năm chi phần này tạo ra cái gọi là đàn ông hay đàn bà, và chính năm chi phần này là cái được sinh ra, già chết và rồi lại tái sinh, cứ tiếp tục mãi mãi không ngừng, do những hành nghiệp từ quá khứ cũng như trong hiện tại.
Trong quyển sách “Cây Giác Ngộ” (The Tree of Enlighten- ment), Giáo sư Peter Santina phân chia mười hai chi phần thành ba nhóm: 1) nhóm tai ách (ô trược): vô minh, ái và thủ; 2) nhóm hành động (nghiệp): hành và hữu; và 3) nhóm khổ đau: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sinh, và già chết.
Trong nhóm thứ nhất, vô minh là căn bản. Do vô minh mà chúng ta tham đắm vào các dục lạc giác quan, vào hưởng thụ, vào những ý tưởng sai lầm, nhất là ý tưởng về cái Ta độc lập và thường còn. Do vậy, vô minh, ái và thủ là nguyên nhân của nghiệp (hành động).
Nhóm thứ hai là nghiệp (hành động), gồm có hành và hữu. Hành bao hàm những dấu ấn, hay thói quen hình thành trong dòng tâm thức, hay sự tiếp diễn không ngừng của thức. Những dấu ấn ấy được tạo thành bởi những hành động lập đi lập lại từ nhiều kiếp trước, trở thành thói quen. Những thói quen đó dẫn dắt nhiều hành động của ta trong hiện tại. Ngoài ra, còn có những hành động tạo tác trong kiếp sống này, và được gọi là hữu. Những thói quen vốn phát triển từ nhiều kiếp trước cùng với những hành động tạo tác trong kiếp này dẫn đến tái sinh với thân ngũ uẩn, rồi già chết, khổ đau, v.v. Đó là nhóm thứ ba.
Khi hiểu được sự vận hành của lý Duyên khởi, ta có thể phá vỡ vòng luân hồi sinh tử đó, bằng cách gột bỏ những bất tịnh của tâm – là vô minh, ái và thủ. Một khi các bất tịnh này bị loại bỏ, sẽ không còn hành nghiệp, và nguồn thói quen cũng không sinh khởi. Khi những hành nghiệp ngưng thì tái sinh và khổ đau cũng ngưng.
Trong Trường bộ, Ðức Phật dạy ngài Anandā rằng:
– “Nầy Anandā, giáo pháp Duyên khởi rất thâm sâu, thật sự thâm sâu. Chính vì không thông hiểu giáo pháp này mà thế gian giống như một cuộn chỉ rối ren, một tổ chim, một bụi rậm lau lách, và không thể thoát khỏi các đọa xứ, cõi dữ, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử.” (DN 15)
Trong một đoạn kinh khác, thuộc Trung Bộ 28, Ngài dạy rằng:
– “Ai hiểu được lý Duyên khởi, người ấy hiểu Pháp; và ai hiểu được Pháp, người ấy hiểu lý Duyên khởi”. (MN 28)
Cho nên, giáo lý Duyên khởi là một giáo lý tinh yếu, thâm sâu, quan trọng, không phải dễ dàng thực chứng và thông hiểu. Là một phàm nhân cư sĩ còn đang tu học, ở đây, chúng tôi chỉ có thể trình bày tóm tắt sơ lược theo kiến giải thô thiển của mình.
Sống Plus (Tổng hợp)
Nguồn: Bình Anson (Dịch – Căn bản phật giáo)